Đánh bắt và chăn nuôi Tôm he Ấn Độ

Sản lượng tôm thế giới khoảng 6 triệu tấn, trong đó khoảng 3,4 triệu tấn là từ đánh bắt và khoảng 2,4 triệu tấn từ chăn nuôi thủy hải sản. Trung Quốc và 4 quốc gia châu Á khác bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan chiếm khoảng 55% sản lượng đánh bắt[6]. Trong số các loài tôm, phần đóng góp của F. indicus vào đánh bắt tôm toàn cầu khoảng 2,4%[6] và vào chăn nuôi tôm toàn cầu là khoảng 1,2% vào năm 2005[5]. Hiện tại F. indicus được chăn nuôi chủ yếu tại Ả Rập Saudi, Việt Nam, Iran và Ấn Độ. Ả Rập Saudi là quốc gia chăn nuôi lớn nhất năm 2005 với sản lượng gần 11.300 tấn. Việt Nam đứng thứ hai với 10.000 tấn. Tại Ấn Độ, chăn nuôi F. indicus đã sụt giảm từ 5.00 tấn năm 2000 xuống còn 1.100 tấn năm 2005 do người dân chuyển sang chăn nuôi tôm sú (Penaeus monodon)[5].

Đánh bắt

Năm 2010, Greenpeace International đã bổ sung tôm he Ấn Độ vào danh lục sách đỏ hải sản của họ. Mặc dù bản thân tôm he Ấn Độ không phải là loài bị đe dọa nhưng phương pháp sử dụng để đánh bắt nó lại tạo ra một lượng lớn sản phẩm đánh bắt không mong muốn, bao gồm nhiều loài nguy cấp như rùa biển[7]

Chăn nuôi

Chu trình sản xuất và chăn nuôi F. indicus tuân theo các bước như đối với các loài tôm khác, nghĩa là sản xuất giống và chăn nuôi tôm hậu ấu trùng thành tôm trưởng thành có kích thước phù hợp với yêu cầu thị trường. Nguồn con giống và kỹ thuật chăn nuôi có thể có khác biệt theo khả năng và nhu cầu của từng nông dân để đảm bảo cân bằng giữa chi phí sản xuất và sản lượng thu hoạch kỳ vọng.

Các kỹ thuật chăn nuôi

Các kỹ thuật chăn nuôi có thể là quảng canh, bán thâm canh và thâm canh.

Chi phí sản xuất và giá trị thị trường

Chi phí sản xuất phụ thuộc vào kiểu chăn nuôi được sử dụng, quy mô sản xuất, số lượng chu kỳ sản xuất mỗi năm v.v.. Người ta ước tính rằng chi phí sản xuất giống là khoảng 1,6 USD/1000. The cost of adult shrimp can range from 4–5 USD/kg.[5]

Tôm he Ấn Độ có giá trị thị trường tương đối thấp hơn so với tôm sú (Penaeus monodon). Giá trung bình của tôm he Ấn Độ là 5,5 USD/kg đối với loại 21-25 con/kg, trong khi P. monodon cùng loại có giá 7-13 USD/kg. Tuy nhiên, do F. indicus dễ nhân giống và chăm sóc nên lợi nhuận tương đối trên cùng một sản lượng thu được từ F.indicus có thể là cao hơn so với những gì thoạt đầu có thể cảm nhận từ các con số nói trên[5].

Theo truyền thống tôm he Ấn Độ được xuất khẩu ở dạng còn đầu, không đầu, còn đuôi hay ở dạng đông lạnh [5].